Mầm Sống Xanh

Các loại hoa thường dùng để làm thuốc (P1)

Tháng 7 3, 2025 | by Lê Ngọc Minh Anh

Các loài hoa được dùng trong y học (P1)

1. Hoa hồng trắng

Theo Học viện Y – Dược học cổ truyền Việt Nam, về dược tính, hoa hồng là một vị thuốc thơm mát, không độc. Theo y học cổ truyền, hoa hồng có vị ngọt, tính ấm, tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng.

Loại hoa hồng trắng (hồng bạch) chứa nhiều vitamin, đường, chất nhày, tinh dầu, dùng chữa ho trẻ em rất công hiệu, ngoài ra còn làm nhuận tràng.

Tinh dầu hoa hồng là chất an thần, làm dịu các chứng bệnh về tiêu hóa, trị đau nhức, căng thẳng thần kinh, suy nhược, mất ngủ, rối loạn kinh nguyệt. Ngoài tác dụng kích thích tuần hoàn máu, nó còn là chất sát khuẩn nhẹ, ít độc trong các loại tinh dầu nên có thể dùng cho trẻ nhỏ.

Nước hoa hồng có tác dụng như một loại sữa, làm mát dịu và sạch sẽ làn da, có tính sát khuẩn nhẹ và làm hưng phấn tinh thần.

2. Hoa cúc vàng

Theo y học cổ truyền:

Hoa cúc vàng có vị đắng, tính ôn, tác dụng vào 3 kinh phế, can, thận. Hiện nay, dược liệu này được dùng để chữa nhức đầu, đau mắt, chảy nước mắt, cao huyết áp và cảm sốt. Ngoài ra còn được dùng để ướp trà hoặc ngâm rượu uống.

Theo y học hiện đại:

Hoa cúc là một nguồn cung cấp vitamin và khoáng chất dồi dào. Trong 51 gam hoa cúc cung cấp 48mg vitamin A, 0.09mg vitamin B6, 17mg sắt, 0.481mg mangan, 289mg kali, 0.07mg đồng và 60mg canxi.

Ngoài ra, loài hoa này còn chứa nhiều hoạt chất có lợi cho sức khỏe như tinh dầu, tanin, inulin, axit hữu cơ, flavonoid, chất nhầy, chất đắng, chất nhựa,… được tìm thấy trong tất cả các bộ phận của cây và mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Hoa cúc từ lâu đã được sử dụng cho mục đích y học. Một nhà thảo dược học từ thế kỷ 16 đã khuyên dùng loài hoa này để điều trị chứng viêm mũi và đau nửa đầu.
Loài hoa này còn có thể dùng làm nước tonic dùng để lọc máu, viêm màng phổi, viêm cơ quan sinh sản, chữa sốt, ho. Đồng thời kích thích hệ tiêu hóa, gan, túi mật và thận.
Nhờ đặc tính chống viêm nên hoa cúc được sử dụng để chữa cảm lạnh, viêm phế quản, nhiễm trùng đường hô hấp trên,…
Hoa cúc vàng đã được sử dụng điều trị viêm loét dạ dày từ thời xưa. Loài hoa này còn có tác dụng kích thích hệ tiêu hóa, giảm cảm giác thèm ăn để điều trị các chứng rối loạn đường tiêu hóa như viêm dạ dày, tiêu chảy và táo bón nhẹ.
Hoa cúc có thể điều trị đau bụng kinh, đặc biệt là chảy máu nhiều trong kỳ kinh nguyệt. Ngoài ra, loài hoa này còn được sử dụng rộng rãi để điều trị viêm bàng quang và nhiễm trùng đường tiết niệu.
Nhiều người sử dụng hoa cúc như một phương pháp tự nhiên chữa viêm da dị ứng, bệnh gút và các bệnh thấp khớp mãn tính.
Ngoài những công dụng của hoa cúc kể trên còn phải kể đến tác dụng làm lành vết thương nhỏ và giảm đau, sưng tấy hay bầm tím.

Rượu ​​hoa cúc có tác dụng trị mụn, làm sạch miệng hoặc dùng làm nước súc miệng thảo dược trị viêm họng, nhiệt miệng. Bạn cũng có thể ăn lá hoa cúc tươi để giảm các triệu chứng loét miệng.

3. Hoa hòe

Theo y học cổ truyền:

Theo y học cổ truyền Hoa hòe có vị đắng nhẹ, tính hàn, quy kinh Can, Đại Trường, có mùi thơm đặc trưng, thuộc nhóm thuốc cầm máu.
Tác dụng: Lương huyết, thanh nhiệt, chỉ huyết. Chữa các chứng đại tiện ra máu, rong kinh, băng huyết, chảy máu cam do huyết nhiệt, viêm nhiễm… Các chứng huyễn vựng, đau đầu, mất ngủ,…
Theo y học hiện đại:

Chống oxy hóa mạnh mẽ, hỗ trợ sức khỏe hệ tuần hoàn.
Thành phần rutin (vitamin PP) tăng sức bền, sự dẻo dai của thành mạch.
Hỗ trợ điều trị cao huyết áp, xơ vữa động mạch.
Hỗ trợ điều trị di chứng sau tai biến mạch máu não.
Tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, điều trị các bệnh lý viêm gan do virus siêu vi B, C.
Bảo vệ tế bào gan, chống ngưng kết tiểu cầu.
Hạ cholesterol máu, giảm co thắt cơ trơn phế quản và ruột (thành phần quercetin).
Điều trị chảy máu cam, trĩ gây xuất huyết,…
Tăng sức đề kháng cho cơ thể ở những bệnh nhân suy nhược, bệnh lao,…

4. Hoa nhài

Theo y học cổ truyền:
Theo đông y, hoa và lá nhài có vị cay và ngọt, tính mát; có tác dụng trấn thống, thanh nhiệt giải biểu, lợi thấp.

Rễ nhài cũng có vị cay ngọt, tính mát, tuy nhiên hơi có độc; có tác dụng trấn thống, gây tê, an thần.

Trong sách cổ và Bản thảo cương mục có ghi “Muốn làm cho người mê đi trong một ngày, cho người đó uống rượu có chừng 3 cm rễ cây nhài, nếu muốn cho mê trong hai ngày thì cho uống gấp hai nghĩa là đoạn rễ dài 6 cm”.

Theo y học hiện đại:
Trong Hiện đại thực dụng trung dược (1957) có ghi “Rễ nhài có tác dụng ma túy (mê) ngâm rượu uống sẽ hôn mê bất tỉnh.

Hoa và lá nhài dùng trị ngoại cảm phát sốt, đau bụng tiêu chảy, lỵ, mụn nhọt độc. Hoa sắc nước dùng rửa mặt, chữa viêm màng khóe mắt và màng mộng, chữa trẻ em lên sởi có sốt, sởi mọc không đều.

Lá dùng trị bạch đới. Lá khô ngâm trong nước rồi làm thành dạng đắp trị loét ngoan cố. Rễ trị mất ngủ, đòn ngã tổn thương, điều kinh. Ngoài ra, còn dùng nước sắc bôi trị viêm mũi, viêm giác mạc.

RELATED POSTS

View all

view all