Các loại hoa thường dùng làm thuốc (P2)
Tháng 7 3, 2025 | by Lê Ngọc Minh Anh
5. Hoa atiso
Theo y học cổ truyền:
Hoa atiso được sử dụng trong y học cổ truyền từ lâu để điều trị nhiều bệnh lý khác nhau
Hoa atiso được sử dụng để giảm huyết áp cao và điều trị tình trạng tăng huyết áp.
Có tính kháng viêm và chống vi khuẩn, được sử dụng để điều trị táo bón và tiêu chảy do vi khuẩn hoặc ký sinh trùng.
Có tính kháng viêm và chống oxy hóa, được sử dụng để giúp làm tan sỏi thận và giảm các triệu chứng đau thắt lưng.
Có tính chống oxy hóa, giảm viêm, được sử dụng để giúp bảo vệ gan và giảm các triệu chứng của bệnh gan.
Được sử dụng để giảm đường huyết và hỗ trợ sức khỏe đường tiêu hóa.
Có tính lợi tiểu, làm mát, được sử dụng để giảm sốt và các triệu chứng cảm lạnh.
Ngoài ra, hoa atiso còn được sử dụng để giúp tăng cường hệ miễn dịch, bảo vệ tế bào khỏi sự tổn thương và giúp phục hồi sức khỏe tổng thể.
Tuy nhiên, cây atiso cũng có thể gây ra một số tác dụng phụ như đau bụng và tiêu chảy khi ăn quá nhiều hoặc khi người dùng không phù hợp với nó.
Theo y học hiện đại:
Ngoài các ứng dụng trong y học cổ truyền, atiso cũng được nghiên cứu để xác định các công dụng của nó trong y học hiện đại. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng atiso có nhiều hoạt tính sinh học có lợi cho sức khỏe
Hoa atiso có khả năng giảm viêm và làm giảm đau do viêm. Các chất chống viêm và kháng khuẩn có trong hoa atiso, chẳng hạn như polyphenol, flavonoid và acid hữu cơ, có thể làm giảm tình trạng viêm và giúp cải thiện các bệnh liên quan đến viêm.
Có thể giúp giảm mức cholesterol và triglyceride trong máu, giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
Các chất polyphenol và flavonoid trong hoa atiso có thể có tác dụng chống oxy hóa và ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư.
Có tính chất thư giãn và giảm căng thẳng, giúp cải thiện tâm trạng và giảm tình trạng lo âu và stress.
Có thể giúp bảo vệ gan khỏi các tác động có hại, giúp cải thiện chức năng gan và giảm nguy cơ các bệnh liên quan đến gan.

6. Hoa mào gà
Mào gà đỏ
Hoa mào gà đỏ vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt trừ thấp, lương huyết chỉ huyết, thường được sử dụng chữa các chứng bệnh như lỵ trực khuẩn hoặc amip, trĩ xuất huyết, thổ huyết (nôn ra máu), ho ra máu, chảy máu mũi, tiểu buốt và tiểu ra máu, băng lậu (rong huyết, rong kinh, băng huyết), di tinh, cao huyết áp, đái dưỡng chấp, nổi mày đay…
Hoa mào gà đỏ được sử dụng trong điều trị bệnh cao huyết áp, các chứng chảy máu, bệnh dị ứng, điều trị lỵ trực khuẩn hay lỵ amip, trĩ xuất huyết. Một số bài thuốc được sử dụng điều trị bệnh từ hoa mào gà đỏ:
Hỗ trợ điều trị cao huyết áp: Hoa mào gà đỏ 3–4 cái, hồng táo 10 quả, sắc lên khoảng 30 phút dùng uống hằng ngày.
Mày đay: Hoa mào gà dùng cả cây sắc uống và ngâm rửa, nếu như nốt sẩn màu đỏ thì dùng hoa màu đỏ, nếu như sắc trắng thì nên dùng hoa màu trắng.
Trị nôn ra máu: Kê quan hoa dùng cả cây khoảng 20g lượng vừa đủ, sắc uống.
Bệnh lỵ trực khuẩn hoặc amip: Hoa mào gà sắc uống, nếu như phân có máu thì dùng hoa màu đỏ, bạch ly (phân chỉ có nhầy) thì nên dùng hoa màu trắng.
Trĩ chảy máu: Kê quan hoa và phòng phong dùng lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, làm thành viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 70 viên với nước cơm và uống khi đói.

Mào gà trắng
Cây hoa mào gà trắng theo đông y có tính hơi hàn, vị đắng, quy vào kinh Can có tác dụng thanh can, sáng mắt, chống viêm, giúp cầm máu, khu phong thanh nhiệt. Được sử dụng để điều trị cao huyết áp, ho ra máu, lỵ trực khuẩn, chảy máu mũi, lòi dom chảy máu, tiểu buốt, tiểu rắt, bế kinh…
Hoa mào gà trắng được sử dụng để điều trị ho ra máu, lỵ trực khuẩn, chảy máu mũi, trĩ chảy máu, tiểu buốt, tiểu rắt, bế kinh, mụn nhọt…
Nôn ra máu: Hoa mào gà trắng tươi 24g (loại khô dùng 12g) hầm với phổi lợn, chia ăn trong ngày. Hoặc dùng hoa mào gà trắng sao 30g, tông lư thán 30g, khương hoạt 30g, các vị tán thành bột mịn, uống mỗi lần 6g với nước cơm.
Tiểu buốt và tiểu ra máu: Hoa mào gà trắng đốt tồn tính, mỗi ngày uống khoảng 15–20g với nước cơm hoặc dùng hoa mào gà 15g sắc uống.
Di tinh: Hoa mào gà trắng 30g, kim tiền thảo 15g, kim anh tử 15g, sắc uống trong ngày.
Đại tiện ra máu: Hoa mào gà sao cháy tán bột, uống mỗi lần 6-9g, mỗi ngày uống 2-3 lần.
Trĩ lở loét: Hoa mào gà 3g, ngũ bội tử 3g, một chút băng phiến, tất cả tán bột, trộn với mật lợn sau đó bôi lên vùng lở loét.
Bế kinh: Hoa mào gà tươi 24g hầm với 60g thịt lợn nạc, sau đó chia vài lần ăn trong ngày.
Khí hư: Bạch đới (khí hư màu trắng) thì dùng hoa mào gà trắng, xích đới (khí hư có màu đỏ) thì dùng hoa mào gà đỏ, sấy khô tán bột, mỗi ngày uống khoảng 9g vào sáng sớm khi đói. Hoặc dùng hoa mào gà trắng 15g, bạch truật 9g, bạch linh 9g, bông mã đề tươi 30g, trứng gà 2 quả, sắc uống hàng ngày.
Băng lậu (ra máu âm đạo nhiều): Hoa mào gà khô 24g sắc uống; Hoa mào gà trắng 15g, phòng phong 6g, tông lư thán 10g, sắc uống; Hoa mào gà và trắc bá diệp lượng bằng nhau, sao cháy tồn tính, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.
Hoa mào gà không chỉ là một cây được dùng làm cảnh mà còn là vị thuốc được sử dụng để chữa nhiều chứng bệnh, một loại thức ăn bổ dưỡng. Tuy nhiên, trong những trường hợp bệnh dùng biện pháp thuốc đông y không hiệu quả bạn nên thăm khám để được tư vấn dùng thuốc đúng.

7. Hoa khế
Hoa khế có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, tăng cường tân dịch, có vị ngọt, tính bình dùng chữa sốt rét, tinh khí kém, kiết lỵ, chân tay lở ngứa, cảm cúm, cảm nắng, viêm họng, ho khan, ho có đờm.
Một số bài thuốc
Chữa ho: Hoa khế 10g, hoa đu đủ đực 10g, lá tía tô 10g. Sắc uống.
Chữa ho, viêm họng: Hoa khế 20g, gừng tươi 20g. Hoa khế rửa sạch, phơi khô. Giã gừng tươi lấy nước cốt. Sau đó ngâm hoa khế và nước cốt gừng 30 phút, đổ hỗn hợp này vào chảo, sao đến khi hoa khế khô lại, cất vào lọ thủy tinh. Mỗi khi dùng cho một ít vào ấm trà, pha nước sôi ủ 15 phút rồi uống.
Chữa sốt cao lên kinh giật: Hoa khế 8g, kim ngân hoa 8g, lá dành dành 8g, cỏ nhọ nồi 8g, cam thảo 8g, bạc hà 4g. Sắc uống.
Chữa sốt rét: Hoa khế 30g, ngưu tất 30g, hoa kim ngân 30g, chi tử 30g, sài hồ 30g. Sắc uống
Trị bệnh tinh khí kém: Khi bị bệnh tinh khí kém, người bệnh có biểu hiện người mệt mỏi, ăn uống kém hay mắc bệnh cảm lạnh, đau lưng, mỏi gối, di tinh dùng bài hoa khế 20g, sài hồ 20g, chỉ xác 20g, xuyên khung 20g, đỗ trọng 20g, nhục thung dung 20g, cam thảo 20g. Sắc uống.
Trị bệnh kiết lỵ: Hoa khế 20g, hậu phác 10g, trần bì 10g, hoàng liên 10g, bạch truật 10g, đương quy 10g. Sắc uống
Trị bệnh chân tay lở ngứa: Hoa khế 15g, thương truật 10g, kim ngân hoa 10g, tỳ giải 10g, ngưu tất 10g, hoàng bá sao vàng 10g, phòng phong 10g, chi tử 10g, cam thảo 10g. Sắc uống.
Ngoài ra, có thể sử dụng lá khế, hoa khế nấu nước tắm rửa, vệ sinh cơ thể chỗ da ngứa.
Chữa đậu sởi: Hoa khế 16g, rễ cây canh châu 16g, thái nhỏ, sao vàng. Sắc uống.
Chữa cảm cúm: Hoa khế 16g, tía tô 10g, kinh giới 10g, ma hoàng 10g. Sắc uống
Trị cảm nắng: Lá khế tươi 10g, hoa khế 10g, lá chanh 10g. Nấu nước uống, phần bã đem đắp thái dương, gan bàn chân.
Lưu ý khi dùng
Nên sử dụng hoa khế trồng khoa học, không lạm dụng thuốc trừ sâu.
Chọn hoa còn cả nụ chưa nở quá nhiều, khi đó ong chưa hút mật nên còn nhiều dưỡng chất.
Cần tham khảo ý kiến bác sĩ về cách sử dụng hoa khế đúng, hợp lý với tình trạng bệnh tật.

8. Hoa sứ
Theo y học cổ truyền
Hoa đại có vị ngọt, tính bình, thơm, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, hòa vị, nhuận tràng, tiêu đờm, trừ ho, bổ phổi, trừ thấp, lương huyết. Có tác dụng hạ huyết áp rất rõ, ở hoa khô mạnh hơn ở những hoa tươi.
Vỏ thân và rễ cây đại có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tả hạ, tiêu thũng, sát trùng. Lá có tác dụng hành huyết, tiêu viêm. Nhựa mủ có tác dụng làm mềm những tổ chức rắn như chai chân.
Theo y học hiện đại
Tác dụng hạ huyết áp và giãn mạch
G. H. Mahran (1974, Planta Medica, 5: 226) đã lấy từ rễ, lá và vỏ đại một chất đắng gọi là plumierit, một glucozit không có trong hoa. Plumierit là một chất bột trắng, có tinh thể, không mùi, vị đắng, độ chảy 155 – 156oC tan trong nước, trong cồn etylic, metylic, etylaxetat. ít tan trong ête, clorofoc, không tan trong ête dầu hoả. Trong hoa có một ít tinh dầu mùi thơm mát.
Viện Vệ sinh dịch tễ và Viện Y học dân tộc trung ương đã xác định lá, hoa và rễ cây đại đều có tác dụng kháng khuẩn. Nước ép từ lá đại tươi có tác dụng đối với các chủng Staphylococcus anreus, Shigella flexneri, Shigella dysenteriae và Bacillus subtilis. Chất kháng khuẩn bền vững đối với nhiệt độ cao và nước sắc từ dược liệu cũng có tác dụng tương tự. Theo tài liệu nước ngoài, dịch chiết nước từ cây đại có tác dụng ức chế sự phát triển một số vi khuẩn.
Tác dụng hạ huyết áp và giãn mạch
Năm 1962, khoa dược lý trường Sĩ quan quân y Việt Nam có nghiên cứu tác dụng của hoa đại (dạng nước sắc 10 – 20%, 100%) đã đi đến một số kết luận sau đây:
Dịch chiết hoa đại (1:1) tiêm tĩnh mạch trên chuột cống trắng, mèo, chó và thỏ đều có tác dụng hạ huyết áp. Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi.
Với liều lượng 0,5g/kg thận trọng, tác dụng hạ huyết áp xuất hiện sau khi dùng thuốc nửa phút và kéo dài trong vòng 5 phút, mức hạ huyết áp đạt 28 + 8% so với đối chứng. Dịch chiết hoa đại còn có tác dụng làm giảm sự co bóp cơ tim ếch cô lập ở nồng độ 5%, sau đó làm tim ngừng đập ở thời kỳ tâm trương, ngoài ra còn có tác dụng làm giãn mạch ngoại vi.
Tác dụng hạ huyết áp xuất hiện nhanh và tương đối bền vững. So với tác dụng của ba gạc (Rauvoifia verticiliata) thì ba gạc tác dụng chậm hơn hoa đại. Độ độc của hoa đại cũng ít hơn ba gạc. Qua thí nghiệm liều dùng cho người có thể tới 60g một ngày, chia làm 2 lần uống.
Hoa dùng trong các trường hợp:
Dự phòng say nắng.
Viêm ruột, lỵ.
Khó tiêu, kém hấp thu, kém dinh dưỡng ở trẻ em.
Nhiễm khuẩn, viêm gan.
Viêm phế khí quản, ho.
Người ta dùng hoa đại làm thuốc chữa bệnh ưa chảy máu có kết quả tốt.
Tinh dầu hoa đại có tác dụng chống nấm. Ở Ấn Độ, nụ hoa đại nhai với lá trầu không là thuốc hạ sốt.
Vỏ thân cây đại có tác dụng kích thích, dạng nước sắc có tác dụng nhuận tràng, tẩy xổ, hạ sốt. Vỏ đại còn có tác dụng hạ đường huyết.
Rễ cây đại có tác dụng tẩy mạnh và độc đối với súc vật.
Nhựa mủ của cây có tác dụng gây xung huyết da, thường gây ngộ độc nếu dùng liều lớn.

RELATED POSTS
View all